Nếu bạn đang tìm kiếm một trải nghiệm du học độc đáo, chất lượng ở Châu Âu, bạn nên chọn Cộng hòa Séc. Cộng hòa Séc có một nền giáo dục chất lượng cao, được công nhận trên toàn thế giới. Bạn đang mong muốn được học tập tại Cộng hòa Séc? Đây là hướng dẫn đầy đủ dành cho bạn.
Nếu bạn đang tìm kiếm một trải nghiệm du học độc đáo, chất lượng ở Châu Âu, bạn nên chọn Cộng hòa Séc. Cộng hòa Séc có một nền giáo dục chất lượng cao, được công nhận trên toàn thế giới. Bạn đang mong muốn được học tập tại Cộng hòa Séc? Đây là hướng dẫn đầy đủ dành cho bạn.
Nutrition in Clinical Practice Fourth Edition tạm dịch sang Tiếng Việt là Dinh dưỡng trong Thực hành Lâm sàng phiên bản thứ 4. Cuốn sách này được thiết kế dành cho các bác sĩ lâm sàng bận rộn đang nỗ lực giải quyết vấn đề quan trọng về dinh dưỡng cho bệnh nhân của họ. Dinh dưỡng trong Thực hành Lâm sàng chuyển cơ sở bằng chứng vững chắc về dinh dưỡng trong sức khỏe và bệnh tật thành hướng dẫn lâm sàng dựa trên bằng chứng, có thể áp dụng được về một loạt các chủ đề dinh dưỡng. Trong phiên bản thứ 4 sửa đổi bao gồm đầy đủ các ứng dụng dinh dưỡng trong thực hành lâm sàng, mở rộng tăng cường sức khỏe, sửa đổi yếu tố nguy cơ, phòng ngừa, quản lý bệnh mãn tính và kiểm soát cân nặng, đặc biệt nhấn mạnh vào việc cung cấp các tóm tắt chính xác, các bước hành động trong quy trình làm việc lâm sàng.
Đầu tiên trong số các nguyên tắc mà cuốn sách này đề cập đến là sự phù hợp về mặt lâm sàng. Nếu tài liệu dường như có ích cho việc bác sĩ lâm sàng tương tác với bệnh nhân thì tài liệu đó sẽ được đưa vào. Nếu một ứng dụng có vẻ xa vời hoặc nếu tài liệu không hỗ trợ sự hiểu biết có thể nâng cao sự trao đổi thì nó sẽ bị loại bỏ. Phạm vi chủ đề dinh dưỡng liên quan đến chăm sóc lâm sàng khá rộng.
Nguyên tắc thứ hai chi phối việc biên soạn văn bản này là tính nhất quán trong việc áp dụng. Trong cuốn sách này, các trạng thái sức khỏe và bệnh tật, cùng các yếu tố cơ bản thúc đẩy chúng được sắp xếp trong các cột và hàng tương ứng. Trên thực tế, những trạng thái này cùng tồn tại ở những bệnh nhân đơn lẻ, thường rất phức tạp. Do đó, các khuyến nghị về dinh dưỡng dành riêng cho từng bệnh thường có ít hữu ích trên lâm sàng. Ngược lại, nếu các khuyến nghị về chế độ ăn uống không bao giờ thay đổi để phù hợp với các tình trạng sức khỏe và mục tiêu lâm sàng khác nhau, thì một cuốn sách gồm nhiều chương dường như là một nỗ lực quá mức để mô tả bộ hướng dẫn thống nhất này.
Nguyên tắc thứ ba là để được sử dụng, tài liệu dành cho ứng dụng lâm sàng phải được mô tả dưới dạng mức độ, tính nhất quán và chất lượng của bằng chứng cơ bản. Đây có thể được coi là một văn bản về y học dựa trên bằng chứng, với tài liệu được xem xét trong mỗi chương được coi là đại diện cho bằng chứng sơ bộ, gợi ý hoặc dứt khoát về bất kỳ mối liên hệ nào được mô tả.
Nguyên tắc thứ tư, liên quan đến nguyên tắc thứ ba, là để hiểu rõ một chủ đề được xem xét kỹ lưỡng, nó phải được xem xét một cách tổng thể (hoặc một số gần đúng). Có một rủi ro khi mỗi chuyên gia trong số nhiều chuyên gia trình bày chi tiết về một khía cạnh cụ thể của dinh dưỡng liên quan đến sức khỏe. Nguy cơ đó có lẽ chưa bao giờ được thể hiện rõ ràng hơn trong bài thơ ngụ ngôn Người mù và con voi của John Godfrey Saxe. Ví dụ, tôi đã bị thuyết phục rằng tình trạng thiếu axit béo n-3 trên danh nghĩa có thể phổ biến ở Hoa Kỳ và góp phần gây ra những hậu quả bất lợi cho sức khỏe. Kết luận này được đưa ra ít dựa trên cơ sở bằng chứng chắc chắn trong bất kỳ lĩnh vực nào mà dựa trên cơ sở bằng chứng rất nhất quán và phong phú trong tổng thể, xuyên suốt nhiều chủ đề. Chỉ một tác giả, khi lần lượt trải qua từng chương trong số nhiều chương, mới có thể truyền đạt đặc điểm của từng chủ đề bằng sự hiểu biết rút ra từ những chủ đề khác. Vì tôi không thể tranh cãi về những bất lợi tiềm tàng của quyền tác giả độc thân, thay vào đó tôi đã tìm cách tận dụng tối đa mọi lợi thế tiềm ẩn. Do đó, tôi đã thoải mái chia sẻ những hiểu biết sâu sắc mà tôi đã thu được khi xem xét tuần tự rất nhiều chủ đề, cố gắng luôn làm rõ nguồn gốc quan điểm của tôi và bản chất của bằng chứng.
Nguyên tắc cuối cùng mà cuốn sách này đề cập đến là quan điểm cho rằng cần phải có một mô hình lý thuyết trong đó có thể giải mã được mối tương tác phức tạp giữa hành vi con người, thực phẩm và sức khỏe. Cũng giống như cách mà các bằng chứng thống nhất đã đưa tôi đến những khuyến nghị cụ thể về quản lý dinh dưỡng, tôi đã trải qua quá trình nghiên cứu này và bị thuyết phục về tính hữu ích của mô hình sinh học tiến hóa đối với hành vi ăn uống của con người. Lập luận này được trình bày chi tiết ở Chương 39. Hành vi và sinh lý của tất cả các loài động vật phần lớn bị chi phối bởi môi trường mà chúng thích nghi; có cả lý do và bằng chứng cho thấy rằng, về mặt dinh dưỡng, điều này cũng đúng với chúng ta.
Séc (tiếng Séc: Česko), tên chính thức là Cộng hòa Séc (tiếng Séc: Česká republika phát âm (trợ giúp·thông tin)), là quốc gia nội lục thuộc khu vực Trung Âu và giáp Ba Lan, Đức, Áo và Slovakia. Thủ đô và thành phố lớn nhất của quốc gia là Praha với hơn 1,3 triệu dân cư ngụ tại đây. Cộng hòa Séc là quốc gia đa đảng theo chế độ cộng hòa đại nghị. Tổng thống là người đứng đầu nhà nước, còn thủ tướng là người đứng đầu chính phủ. Quốc hội có hai viện gồm thượng viện và hạ viện. Cộng hòa Séc gia nhập NATO vào năm 1999 và trở thành thành viên của Liên minh châu Âu từ năm 2004. Ngày 21 tháng 12 năm 2007, Cộng hòa Séc đã thông qua Hiệp ước Schengen, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc đi lại và du lịch vào nước này. Ngoài ra, Cộng hòa Séc là thành viên của các tổ chức OECD, OSCE, Ủy hội châu Âu và Nhóm Visegrád.
Lãnh thổ Cộng hòa Séc bao gồm các vùng đất đã từng tồn tại trong lịch sử là Bohemia, Morava và 1 phần Silesia. Séc trở thành bộ phận của Đế quốc Áo và Đế quốc Áo-Hung trong hàng thế kỉ cho đến năm 1918 khi Séc cùng với Slovakia tuyên bố thành lập nước Tiệp Khắc. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Tiệp Khắc bị phát xít Đức chiếm đóng. Sau đó, nước này trở thành quốc gia xã hội chủ nghĩa cho đến năm 1989 khi cuộc Cách mạng Nhung diễn ra đưa đất nước trở về tiến trình dân chủ. Ngày 1 tháng 1 năm 1993, một cuộc ly khai đã diễn ra, Tiệp Khắc lại tách thành 2 quốc gia độc lập là Séc và Slovakia.
Bạn có thể nhấn vào để xem bản đồ toàn màn hình.
Sau khi bị sáp nhập vào Đế chế Habsburg, người Séc bắt đầu bị đồng hóa. Tiếng Séc bị cấm sử dụng và tiếng Đức trở thành ngôn ngữ chính thức ở Séc.
Năm 1618, người Bohemia đã nổi dậy chống lại triều đình Habsburg. Họ đã chọn 1 người theo đường lối của Jean Calvin là Frederick của Palatinate (Fridrich Falcký) lên ngôi. Nhưng đến ngày 6 tháng 11 năm 1620, quân đội Séc bị đánh bại tại Trận Núi Trắng (Bitva na Bílé hoře). Chiến tranh Ba mươi năm (1618-1648) đã phá hủy phần lớn những làng mạc, thành phố của Bohemia.
Đến thời nữ hoàng Maria Theresa và con trai, vua Joseph II, những người chịu ảnh hưởng của Thời đại Khai sáng, tình hình Bohemia bắt đầu có những chuyển biến. Tuy chính sách đồng hóa vẫn không thay đổi nhưng tình hình xã hội, giáo dục đã cải thiện cho người Séc. Vào thế kỷ XIX, chủ nghĩa bành trướng của Pháp dưới thời vua Napoleon I đã kích thích tinh thần phục hưng dân tộc của người Séc. Tầng lớp trí thức mới hơn đã đóng vai trò nhất định trong việc phục hưng và phát triển ngôn ngữ dân tộc. Tháng 2 năm 1848, cuộc Cách mạng tháng 2 ở Pháp đã làm bùng nổ cao trào cách mạng tư sản lan khắp châu Âu. Vào ngày 12 tháng 6 năm 1848, khởi nghĩa của những người dân chủ cấp tiến và sự hưởng ứng của nhân dân đã bùng nổ tại Praha và đến ngày 17 tháng 6, cuộc khởi nghĩa bị dập tắt.
Năm 1867, nhà nước quân chủ lưỡng hợp Áo-Hung ra đời trong đó Séc nằm trong tầm ảnh hưởng của Áo. Vào những năm ở nửa sau của đế chế Áo-Hung, tình hình giữa người Séc và người Đức ở Bohemia trở nên căng thẳng hơn. Mối quan hệ xấu đi giữa các dân tộc trong đế chế đã đẩy nhanh hơn sự sụp đổ của quốc gia này. Năm 1900, Tomáš Garrigue Masaryk người sau này trở thành tổng thống Tiệp Khắc đã thành lập Đảng Tiến bộ Séc. Ý tưởng về quốc gia kết hợp giữa hai dân tộc Séc và Slovakia bắt đầu hình thành.
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc cùng với sự sụp đổ của Đế chế Áo-Hung, ngày 28 tháng 10 năm 1918, Cộng hòa Tiệp Khắc (bao gồm Séc và Slovakia ngày nay) tuyên bố độc lập. Hiệp ước St. Germain bị ký kết vào tháng 9 năm 1919 đã chính thức công nhận nền cộng hòa mới của Tiệp Khắc. Sau đó, Ruthenia cũng sáp nhập vào Tiệp Khắc vào tháng 6 năm 1920. Quốc gia Tiệp Khắc mới thành lập có dân số khoảng 13,5 triệu người, thừa hưởng 70-80% các cơ sở công nghiệp của Áo-Hung. Lúc đó Tiệp Khắc nằm trong 10 nước công nghiệp hóa nhất thế giới.
Trước chiến tranh thế giới thứ hai, chính quyền phát xít ở Đức bắt đầu đe dọa tiến hành xâm lược Trung Âu. Sau khi sáp nhập nước Áo vào lãnh thổ Đức, Tiệp Khắc trở thành mục tiêu tiếp theo của phát xít Đức. Tháng 4 năm 1938, Đức nêu yêu sách đòi vùng đất Sudetenland của Tiệp Khắc. Ngày 29 tháng 9 năm 1938, Hiệp ước München bị ký kết. Anh, Pháp vì không muốn chiến tranh với Đức đã quyết định vứt bỏ liên minh quân sự với Tiệp Khắc. Và hậu quả là đến ngày 16 tháng 3 năm 1939, toàn bộ lãnh thổ Tiệp Khắc đã bị Đức chiếm đóng. Trong những năm Chiến tranh thế giới thứ hai, khoảng 390.000 người dân thành thị trong đó có 83.000 người Do Thái đã bị giết hại hoặc bị hành quyết. Hàng trăm ngàn người đã bị đưa vào các nhà tù và các trại tập trung để làm việc. Chiến tranh kết thúc vào ngày 9 tháng 5 năm 1945 với việc cuộc khởi nghĩa Praha lật đổ ách thống trị của phát xít Đức thành công và quân đội Liên Xô và Hoa Kỳ tiến vào Tiệp Khắc.
Từ năm 1945-1946, đa phần người Đức thiểu số (khoảng 2,7 triệu người) đã bị trục xuất khỏi Tiệp Khắc sang Đức và Áo. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc phát triển nhanh hơn do sự thất vọng của người Tiệp Khắc đối với phương Tây vì đã vứt bỏ họ trong Hiệp ước München và do ảnh hưởng ngày càng mạnh của Liên Xô. Trong cuộc bầu cử năm 1946, Đảng Cộng sản đã giành tỉ lệ phiếu 38%, trở thành chính đảng lớn nhất và chính thức cầm quyền từ tháng 2 năm 1948. Sau đó, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc đã xây dựng 1 chính quyền toàn cộng sản.
Sau khi nắm quyền, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc đã quốc hữu hóa các ngành kinh tế, xây dựng nền kinh tế kế hoạch. Kinh tế tăng trưởng nhanh hơn trong thập niên 1950 và thập niên 1960 sau đó bắt đầu giảm sút từ thập niên 1970 và rơi vào khủng hoảng hơn. Chính quyền cộng sản trở nên thiếu dân chủ hơn. Năm 1968, phong trào Mùa Xuân Praha bùng nổ đòi mở rộng tự do dân chủ và thực hiện đa nguyên chính trị song sau đó bị quân đội Liên Xô đàn áp và dập tắt.
Tháng 11 năm 1989, cuộc Cách mạng Nhung lụa đưa Tiệp Khắc trở lại quá trình dân chủ. Ngày 1 tháng 1 năm 1993, Tiệp Khắc diễn ra cuộc “chia li trong hòa bình”. 2 dân tộc Séc và Slovakia tách ra thành lập 2 quốc gia mới là Cộng hòa Séc và Cộng hòa Slovakia.
Sau khi lại trở thành 1 quốc gia độc lập vào năm 1993, quốc hội Cộng hòa Séc đã quyết định giữ nguyên lá cờ của Liên bang Tiệp Khắc cũ làm lá cờ của Cộng hòa Séc. Cùng năm đó, nước này gia nhập Liên Hợp Quốc. Đến năm 1995, Cộng hòa Séc trở thành thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Ngày 12 tháng 3 năm 1999, Cộng hòa Séc gia nhập NATO. Vào năm 2004, cùng với 9 quốc gia Đông Âu và Nam Âu khác, Cộng hòa Séc đã trở thành thành viên của Liên minh châu Âu. Kinh tế Cộng hòa Séc đi theo nền kinh tế thị trường và đã trên đà phát triển song vẫn đối mặt với những mạo hiểm và thách thức.
Về mặt địa lý, Cộng hòa Séc nằm ở khu vực Trung Âu còn theo phân loại của Liên Hợp Quốc thì nước này thuộc khu vực Đông Âu. Về mặt lịch sử và văn hóa, Cộng hòa Séc bị xem là có liên hệ gần gũi hơn với các nước Đông Âu đặc biệt là trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Diện tích Cộng hòa Séc xếp hàng thứ 115 thế giới (xem Danh sách quốc gia theo diện tích). Tổng diện tích của nước này là 78.886 km², trong đó phần đất chiếm 77.276 km² và phần nước chiếm 1.590 km². Do bị bao quanh bởi các quốc gia khác nên Cộng hòa Séc không giáp biển. Nước này có chung đường biên giới 1.881 km với các nước Đức về phía tây, Ba Lan về phía đông bắc, Slovakia về phía đông nam và Áo về phía nam.
Về mặt lịch sử, lãnh thổ Cộng hòa Séc có thể chia làm 3 vùng lịch sử: Bohemia, Moravia và Silesia. Silesia chỉ có 1 phần lãnh thổ ở Cộng hòa Séc.
Địa hình nước này có thể chia thành 2 miền chính: Bohemia ở phía tây và Moravia ở phía đông. Địa hình Bohemia có cấu trúc như 1 bồn địa gồm những đồng bằng và cao nguyên bao bọc xung quanh bởi những dãy núi như dãy Karkonosze và dãy Sudeten. Đỉnh núi Snezka tại Bohemia và ngọn núi cao nhất Cộng hòa Séc (1602 m). Trong khi địa hình Bohemia bằng phẳng hơn thì ngược lại, địa hình Moravia chủ yếu là đồi núi. Cộng hòa Séc là nơi bắt nguồn của sông Elbe, sông Vltava ở xứ Bohemia và sông Morava ở xứ Moravia. Các con sông của nước này chảy vào các biển khác nhau như: biển Bắc, biển Baltic và biển Đen.
Về khoáng sản, Cộng hòa Séc có 1 số tài nguyên như than đá, than chì, cao lanh, đất sét, gỗ xây dựng…
Cộng hòa Séc nằm trong khu vực khí hậu ôn hòa. Do nằm sâu trong lục địa và không còn chịu các tác động của biển nên Cộng hòa Séc có khí hậu ôn đới lục địa, 1 nguyên nhân gây ra sự chênh lệch giữa thời tiết mùa hạ và mùa đông tại nước này. Sự đa dạng của địa hình cũng góp phần làm nên sự đa dạng của các kiểu khí hậu khác nhau tại Cộng hòa Séc.
Nhìn chung trên toàn lãnh thổ Cộng hòa Séc, khí hậu về mùa đông không khắc nghiệt như 1 số nước. Nhiệt độ trung bình thấp nhất tại nước này vào tháng 1, tháng lạnh nhất trong năm là -5,4 °C. Tuyết thường rơi nhiều hơn tại 1 số vùng núi nhưng tan nhanh hơn tại các vùng thấp hơn của Cộng hòa Séc khiến cho mùa đông ở nước này ẩm hơn. Khi mùa đông kết thúc, băng tuyết tan chảy làm mực nước các con sông dâng lên và thỉnh thoảng có thể gây lũ. Mùa hè tại Cộng hòa Séc có nhiệt độ trung bình cao nhất vào tháng 7, tháng nóng nhất tại Cộng hòa Séc là 23,3 °C. Mùa hè tại nước này có nhiều mưa hơn 1 số nước. Những trận bão từ Đại Tây Dương có thể tràn vào nước này cũng mang theo 1 lượng mưa bổ sung. Nhiệt độ và lượng mưa giảm dần về mùa thu và các rừng cây bắt đầu rụng lá.